Chẩn đoán và điều trị nghiện rượu - lạm dụng rượu
Nghiện rượu là một bệnh mãn tính, do nhu cầu uống rượu không được thoả mãn một cách thường xuyên, gây thèm rượu bắt buộc làm ảnh hưởng đến hiệu suất công tác, đến sức khoẻ tâm thần và thể chất, làm tổn thương đến các mối quan hệ gia đình và đời sống xã hội.
Chẩn đoán và điều trị nghiện rượu – lạm dụng rượu ở nam giới1. Định nghĩa: Nghiện rượu là một bệnh mãn tính, do nhu cầu uống rượu không được thoả mãn một cách thường xuyên, gây thèm rượu bắt buộc làm ảnh hưởng đến hiệu suất công tác, đến sức khoẻ tâm thần và thể chất, làm tổn thương đến các mối quan hệ gia đình và đời sống xã hội.
a. Rối loạn tâm lý, tâm lý bất ổn trong cuộc sống xã hội mà bản thân bệnh nhân không giải quyết được…: Ly hôn, thất tình, kinh doanh thất bại…
b. Lối sống, nghi thức quan hệ xã hội: Các đối tượng bệnh nhân phải tiếp khách nhiều, sống trong vùng sử dụng nhiều rượu…
c. Bệnh nhân có tâm lý yếu, bị lôi kéo sử dụng rượu….
d. Di truyền, ảnh hưởng của lối sống gia đình,…
Trong xã hội, nam giới nghiện rượu và lạm dụng chiếm đa số.
3. Chẩn đoán lâm sàng:
A. Hội chứng nghiện:
- Nét đặc trưng, trung tâm để mô tả hội chứng nghiện là sự thèm muốn thường mạnh mẽ, đôi khi rất mãnh liệt sử dụng rượu. Có bằng chứng là phải quay lại sử dụng rượu sau một thời gian bỏ rượu để làm mất các cảm giác khó chịu do nghiện.
- Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán: Chỉ đạo chẩn đoán xác định nghiện khi có từ 3 trở lên các đặc điểm sau đây:
a. Thèm muốn mạnh mẽ hoặc cảm thấy buộc phải sử dụng rượu.
b. Khó khăn trong việc kiểm tra tập tính sử dụng rượu về mặt thời gian bắt đầu, kết thúc hoặc mức sử dụng.
c. Một trạng thái cai sinh lý.
d. Có bằng chứng về hiện tượng dung nạp rượu, như cần phải tăng liều để chấm dứt hậu quả lúc đầu do liều thấp gây ra (Những người nghiện rượu có thể dùng hàng ngày những lượng rượu đủ để làm mất năng lực hoặc gây nguy hiểm cho những người không dung nạp được rượu).
e. Dần dần sao nhãng các thú vui trước đây, bằng thay thế cho sự thích thú đi tìm và sử dụng rượu, tăng số thời gian cần thiết để tìm kiếm hay sử dụng rượu.
f. Tiếp tục sử dụng rượu mặc dù có bằng chứng rõ ràng về hậu quả tác hại, như tác hại đối với gan và nhiều cơ quan khác do uống quá nhiều. Các trạng thái khí sắc trầm tiếp theo sau những thời kỳ sử dụng rượu nặng, hoặc thiếu sót về chức năng nhận thức tác hại của rượu.
- Khuynh hướng uống rượu một cách thường xuyên vào những ngày làm việc và những ngày nghỉ cuối tuần bất chấp những qui tắc xã hội ràng buộc.
- Nét đặc trưng chủ yếu của hội chứng nghiện là phải sử dụng rượu hoặc thèm muốn khó cưỡng lại dùng rượu trong thời gian cố gắng ngừng hoặc bị kiểm soát việc dùng rượu.
B. Hội chứng cai: Hội chứng cai là biểu hiện chủ yếu của chứng nghiện rượu, hội chứng này xuất hiện khi bệnh nhân đột nhiên ngừng uống rượu (thiếu rượu).
- Người bệnh có khí sắc trầm, buồn chồn, bứt rứt khó chịu, đứng ngồi không yên.
- Lo âu, sợ hãi một cách mơ hồ, các ý tưởng liên hệ thô sơ.
- Rối loạn giấc ngủ, như giấc ngủ nông, dễ giật mình, dễ thức giấc, hoặc ác mộng hãi hùng, đôi khi mất ngủ hoàn toàn.
- Run.
- Rối loạn thần kinh thực vật (vã mồ hôi, tim đập nhanh...).
- Trong hội chứng cai rượu nặng người bệnh có thể có cơn co giật động kinh cũng như các ảo giác về thị giác và thính giác, đặc biệt về chiều và đêm.
- Đặc trưng cho hội chứng cai rượu là những biểu hiện trên đều dịu đi hoặc biến mất khi uống lại rượu.
- Hội chứng cai biểu hiện ngày càng tăng dần, làm người nghiện cứ sau vài giờ lại phải uống một liều rượu nhỏ để làm dịu đi các triệu chứng trên.
Hội chứng cai rượu kéo dài từ vài giờ đến 3 - 4 tuần tùy mức độ nghiện rượu nặng hay nhẹ.
C. Khả năng dung nạp rượu:
Đồng thời với sự phát triển của hội chứng cai rượu, ngưỡng dung nạp rượu của người bệnh cũng thay đổi. Nghiện rượu giai đoạn đầu phát triển, người bệnh uống lượng tăng dần nhưng càng về sau lượng rượu ngày một kém dần, có khi chỉ một liều lượng nhỏ rượu, người bệnh đã say.
D. Rối loạn tâm thần:
- Thay đổi các phản ứng cảm xúc: Rối loạn khí sắc, khoái cảm chiếm ưu thế, khoan khoái dễ chịu, nói năng huyên thuyên, khoác lác, hay đùa cợt, xàm xỡ, cáu gắt, công kích dọa nạt, chửi bới tấn công người khác.
- Trạng thái khí sắc này trong một ngày có thể thay đổi từ vui nhộn, khoan khoái với những câu bông đùa vô duyên, quá xàm sỡ chuyển sang quấy rầy, nổi khùng, cau có, gây gỗ, độc ác hoặc có thể buồn rầu, đầy những sợ hãi, lo lắng, mơ hồ, về đêm thường thấy những mộng mị rời rạc, ngắn ngủi hoặc những cơn rối loạn ảo giác lẻ tẻ, thường là ảo thị (nhìn thấy rắn rết, sâu bọ, hổ báo... đang rượt đuổi theo bệnh nhân) khiến bệnh nhân có biểu hiện cảm xúc hốt hoảng sợ hãi, la hét.
- Trí tuệ, trí nhớ, khả năng sáng tạo, sáng kiến đều giảm, tư duy trở nên thủ cựu, người bệnh đi dần vào tình trạng sa sút tâm thần.
E. Biến đổi nhân cách:
* Với gia đình:
- Người bệnh ngày càng trở nên ích kỷ, mất đi những thích thú cũ, lãnh đạm hoàn toàn với người thân, đòi hỏi có tính chất vị kỷ thô bạo, đặc biệt trong quan hệ với người thân. Giảm sút tình cảm đạo đức, không quan tâm đến gia đình, tiêu xài tất cả tiền lương vào rượu suốt ngày chăm lo đến việc làm thế nào để có rượu uống.
- Người bệnh không cảm thấy xấu hổ vì đã phải ăn bám gia đình, vợ con, hơn nữa người bệnh cũng chẳng ân hận khi lấy cắp tiền của người thân để uống rượu, thậm chí còn bán cả những vật dùng cần thiết của mình cũng như của vợ con. Cuộc sống tạm bợ, bê tha, hoàn toàn không nghĩ gì đến ngày mai. Người bệnh hay nói dối, cuộc sống buông thả, dễ mắc nợ, cắm quán, hứa hão, bịa ra đủ mọi thứ để vòi tiền. Nợ nần thường không trả, để cho người thân phải trả. Những cá tính tinh tế bị mất đi, do giảm khả năng nắm bắt thực tại và ứng xử các tình huống xảy ra, thiếu lịch sự và hành động quá khích.
- Khả năng phê phán giảm rõ rệt đặc biệt đối với địa vị của mình và quan hệ của gia đình mình. Phủ nhận là mình đã dùng rượu quá mức. Đôi khi người bệnh hứa bỏ rượu một cách dễ dàng, cam đoan rằng điều đó đối với họ chẳng khó khăn gì, song thực tế không đủ ý chí để từ chối những lời hẹn hò của các bạn rượu, chiều đến người nghiện đứng ngồi không yên, bồn chồn đi tới, đi lui chờ mong tín hiệu của bạn rượu để được đến điểm hẹn uống rượu. Người bệnh chẳng những không từ chối mà còn vui sướng nhận những lời mời rượu của bạn rượu.
Những biến đổi như trên ngày càng làm suy giảm các tập tính tốt.
- Trong nghiện rượu mạn tính, thời kỳ đầu người bệnh chỉ dùng rượu từng lúc, về sau thường cảm thấy cồn cào vào buổi sáng và cả buổi chiều. Lúc đầu chỉ uống vào những ngày nghỉ, ngày lễ khoảng 1 - 2 lần trong tuần hoặc gặp thì uống. Khi say người bệnh còn giữ được những nét khoan khoái, khoái cảm, vui vẻ, sau đó xuất hiện tình trạng say liên miên.
Trong cơn say cảm xúc giận dữ, dễ bị kích thích, người bệnh khi uống rượu vào trở nên dễ bực dọc, hay gây sự, vin cớ cãi cọ, tục tằn, thường tấn công, đập phá đồ đạc, đánh đập người thân (có người trong tình trạng này đã cầm dao chém vợ, đánh con gây thương tích nặng nề). Đe dọa tính mạng của người thân khiến cho cả gia đình luôn trong tình trạng hoảng loạn.
- Giai đoạn muộn của nghiện rượu khả năng dung nạp rượu bắt đầu giảm xuống. Trong vài ngày liền đang uống hàng ly rượu lớn, người bệnh sau đó buộc phải giảm liều hoặc phải ngừng uống rượu hẳn vì các rối loạn toàn thân nặng (tức ngực, tim đập nhanh, khó chịu, nôn, ỉa chảy...). Cứ như vậy lúc tăng, lúc giảm, lúc buộc phải ngừng rồi lại uống lại... cuối cùng người bệnh ngày càng suy nhược phải nằm tại giường.
* Với công việc:
Người bệnh nghỉ việc thường xuyên, năng suất công tác giảm sút làm cho bệnh nhân sớm bị buộc thôi việc. Công việc thường bị gián đoạn, tiền lương kiếm được ngày càng giảm sút, mặc dù bệnh nhân rất muốn kiếm được nhiều tiền để uống rượu.
· Với xã hội:
Địa vị xã hội của người bệnh dần dần bị hạ thấp, mối quan hệ xã hội bị thu hẹp dần, người bệnh mất dần những bạn bè thân thích, đặc biệt những người bạn tốt muốn gần gũi khuyên can bệnh nhân từ bỏ rượu, chỉ còn những bạn rượu chia xẻ thú uống rượu nhất thời. Phẩm chất xã hội thoái hóa dần, thường vi phạm pháp luật.
4. Chẩn đoán: Nghiện rượu mãn tính dựa vào các biểu hiện sau:
- Thường xuyên thèm muốn uống rượu.
- Hội chứng cai rượu.
- Sự thay đổi về khả năng dung nạp rượu.
- Sự biến đổi nhân cách và sa sút tâm thần.
Nguyên tắc điều trị:
+ Sử dụng kết hợp giữa liệu pháp tâm lí và hoàn cảnh môi trường.
+ Sử dụng các liệu pháp y học tổng hợp.
+ Các phương pháp cai nghiện rượu bằng thuốc.
+ Điều trị chống tái phát.
+ Điều trị các rối loạn cơ thể khác.
a. Điều trị hội chứng cai rượu:
+ Tíêp nhận bệnh nhân tự nguyện hoặc cưỡng bức theo yêu cầu và điều trị nội trú tại các cơ sở y tế.
+ Cắt hội chứng cai rượu bằng thuốc benzodiazepin hoặc carbamazepin.
Có thể dùng một trong các phác đồ sau:
Phác đồ 1: seluxen 10mg × 2 ống/ngày, tiêm bắp sáng, tối; dùng từ 5 – 7 ngày.
Phác đồ 2: rivotril 2mg × 4 viên/ngày, uống sáng 1 – 2 viên, tối 2 viên; dùng 5 – 7 ngày.
Phác đồ 3: lexomil 6mg × 4 viên/ngày, uống sáng 1 -2 viên, tối 2 viên; dùng từ 5 – 7 ngày.
Phác đồ 4: carbamazepin 0,2 × 4 viên/ ngày, uống sáng 1 -2 viên, tối 1 – 2 viên; dùng 5 – 7 ngày.
Cần lưu ý khả năng gây dị ứng của thuốc xuất hiện muộn sau 1 – 2 tuần.
b. Điều trị chống tái phát:
Disulfiram (antabus, esperal): là chất gây ức chế chuyển hoá rượu thành CO2 và H20 tạo ra năng lượng và sản phẩm chuyển hóa rượu dở dang là aldehyl etlylic (etanol). Chất này gây ra nhiều phản ứng khó chịu cho bệnh nhân như đau đầu, buồn nôn, nôn, đánh trống ngực, hoảng sợ và cảm giác sợ chết. Vì vậy, bệnh nhân sợ uống rượu.
Cách dùng: uống disulfiram 150 – 250mg/ngày vào các buổi sáng và cấm bệnh nhân uống rượu dưới mọi hình thức. Thuốc uống kéo dài nhiều tháng, thậm chí nhiều năm và có thể thay thế disulfiram bằng metronidazol (klion), kết quả không tốt bằng, nhưng ít tác dụng phụ, rẻ tiền và dễ mua hơn. Cách dùng metronidazol 0,25 uống ngày 4 – 6 viên, chia làm 2 lần (sáng, tối) và cũng uống kéo dài trong nhiều tháng, nhiều năm.
c. Điều trị các rối loạn cơ thể khác:
+ Cần điều trị hợp lí các bệnh cơ thể do rượu như: viêm gan, xơ gan do rượu, viêm dạ dày, cao huyết áp, bệnh tim do rượu…
+ Cần phải sử dụng vitamin nhóm B như: vitamin B1, B6, B12 đặc biệt là vitamin B1 liều cao ngay từ đầu để khắc phục tình trạng thiếu vitamin B1 mạn tính và trầm trọng ở người nghiện rượu.
6. Phòng bệnh:
- Tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân những tác hại của rượu đối với sức khỏe tâm thần, thể chất, nguy hiểm khi say rượu- rối loạn tâm thần do rượu.
- Có qui chế quản lý, kiểm soát chặt chẽ trong việc sản xuất, bán mua và tiêu thụ các loại rượu, nước giải khát có rượu, thuốc uống có rượu.
- Giáo dục người dân, đặc biệt là thanh thiếu niên có lối sống lành mạnh tránh lạm dụng rượu
Tin nổi bật
- Khi bạn bị ung thư tuyến tiền liệt bạn vẫn có thể điều trị khỏi hoàn toàn
20/10/2024 - 19:38:59
- Điều trị bệnh lý bàng quang tăng hoạt: Tiểu nhiều lần, tiểu đêm, tiểu gấp
26/11/2023 - 19:30:03
- Hướng dẫn các bước phẫu thuật hạ tinh hoàn nôi soi
11/11/2022 - 23:02:35
- Điều trị rối loạn cương dương ít xâm lấn
26/09/2022 - 15:24:03
- Hình ảnh hẹp niệu đạo nam giơi trên phim chụp XQ xuôi dòng và ngược dòng
05/06/2022 - 21:41:28
- Tại sao thoát vị bẹn có thể gây teo tinh hoàn ở nam giới
24/03/2022 - 22:52:13