Giới thiệu các phương pháp điều trị sỏi thận ít sang chấn
Sỏi thận có nhiều hình thái, nhiều thành phần cấu tạo. Chính vì vậy, phẫu thuật viên tiết niệu rất cân nhắc khi lựa trọn phương pháp can thiệp nội hay ngoại khoa trong điều trị sỏi thận nhằm hạn chế tối đa tổn thương tới thận đang chứa sỏi. Theo xu thế phát triển của công nghệ khoa học kỹ thuật, trong công tác điều trị bệnh lý sỏi thận đã có nhiều phương pháp điều trị ngoại khoa ít xâm lấn tới thận mà hiệu quả lấy hết sỏi cao. Tài liệu này rất có ý nghĩa cho bạn đọc tham khảo, đặc biệt là các bác sĩ mới ra trường khi chẩn đoán và tư vấn phương pháp điều trị sỏi thận cho bệnh nhân.
Sỏi tiết niệu đã thấy ở những xác ướp Ai Cập cổ đại từ năm 4800 trước công nguyên [10], [11]. Tỷ lệ mắc bệnh sỏi tiết niệu giao động từ 2 - 3%, thay đổi tuỳ theo từng vùng và hay tái phát với tỷ lệ khoảng 10% sau 1 năm; 35% sau 5 năm; 50% sau 10 năm [10], [11]. Với những thành tựu vượt bậc trong các lĩnh vực: chẩn đoán hình ảnh, công nghệ và trang thiết bị nội soi, dụng cụ phá sỏi...từ năm 1980 trở lại đây, một loạt các phương pháp điều trị sỏi thận không sang chấn ( non-invasive ) hoặc ít sang chấn ( mini-invasive ) đã ra đời và ngày càng hoàn thiện [6]. Các phương pháp chủ yếu điều trị sỏi thận ít sang chấn hiện tại bao gồm: lấy sỏi thận qua da ( percutaneous nephrolithotomy - PCNL ), tán sỏi thận qua nội soi niệu quản ngược dòng ( retrograde transureteral nephrolithotripsy ), lấy sỏi thận bằng phẫu thuật nội soi trong hoặc sau phúc mạc ( transperitoneally or retroperitoneally laparoscopic pyelolithotomy ). Chúng tôi xin giới thiệu một cách tổng quan về các phương pháp này như sau. I. LẤY SỎI THẬN QUA DA 1.1. Lịch sử Năm 1976, Fernstrom và Johanson thông báo trường hợp đầu tiên lấy sỏi thận qua da qua dẫn lưu thận đã được đặt trước đó. Năm 1979, Smith các đồng nghiệp đã mô tả thủ thuật tạo đường vào hệ tiết niệu qua da như là một thủ thuật nội soi niệu và ông đã thông báo 5 trường hợp điều trị sỏi thận và niệu quản bằng đường dẫn lưu thận xuyên da. Sự phát triển và cải tiến các dụng cụ phá sỏi bằng điện thuỷ lực, siêu âm, xung hơi và laser đã nhanh chóng làm cho việc lấy sỏi qua da với những viên sỏi lớn trở nên dễ dàng hơn [12]. Kỹ thuật này được ưa chuộng hơn mổ mở nhờ giảm được tỷ lệ tai biến - biến chứng, ít đau đớn sau mổ và thời gian hồi phục nhanh hơn. 1.2. Chỉ định và chống chỉ định 1.2.1. Chỉ định Tất cả các loại sỏi thận, nói chung đều có thể được lấy bằng đường qua da. Tuy nhiên, tuỳ theo kích thước sỏi, kỹ năng của phẫu thuật viên mà các phương pháp điều trị khác có thể được ưa thích hơn [13]. Chỉ định PCNL hiện tại bao gồm [6]: - Sỏi trong túi thừa đài thận. + Bệnh nhân có các rối loạn về đông máu chưa được điều trị ổn định. + Bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm khuẩn tiết niệu, cấy nước tiểu (+). * Chống chỉ định tương đối: - Bệnh nhân có nhiễm khuẩn niệu, lao niệu chưa ổn định. - Bệnh nhân có thai. - Bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ cao: già yếu, nhiều bệnh kết hợp. * Những bệnh nhân có sỏi thận trên thận dị dạng ( thận móng ngựa, thận dị dạng xoay, thận lạc chỗ ), dị dạng cột sống, hẹp đài bể thận, khi chỉ định PCNL cần thận trọng. Các bệnh nhân này nên kết hợp với các bác sĩ chẩn đoán hình ảnh có kinh nghiệm chọc dò vào đài bể thận dưới hướng dẫn của siêu âm. 1.3. Kết quả điều trị Kết quả điều trị sỏi thận bằng phương pháp lấy sỏi qua da phụ thuộc nhiều vào việc lựa chọn bênh nhân, kinh nghiệm của phẫu thuật viên, trang thiết bị kỹ thuật. Tỷ lệ hết sỏi chung theo nghiên cứu của nhiều tác giả dao động trong khoảng từ 90 - 96%, thời gian nằm viện dưới 4 ngày, và hầu hết các bệnh nhân đều có thể vận động nhẹ nhàng được sau 24 giờ [6], [13], [12]. Cuối năm 2016, với những ca tán sỏi qua da dưới hướng dẫn của siêu âm đầu tiên tại bệnh viện ĐHY Hà Nội thành công. Kỹ thuật PCNL dưới hướng dẫn của Siêu âm dần phổ biến trên toàn quốc trong vài năm sau đó. Do có siêu âm hướng dẫn kim chọc dò vào đài bể thận cho nên PCNL trở thành phẫu thuật lấy sỏi thận ít xâm lấn, an toàn, hiệu quả, nhanh hồi phục. Kết quả cho thấy tỷ lệ sạch sỏi có thể đạt tới 100% nếu sỏi đơn thuần ở bể thận, sỏi san hô không phức tạp...
Hình ảnh tán sỏi thận qua da 1.4. Tai biến - biến chứng Mặc dù PCNL là một phương pháp điều trị ít sang chấn hơn mổ hở nhưng những tai biến - biến chứng vẫn có thể xảy ra trong quá trình chọc, nong tạo đường vào đài bể thận, tán và lấy sỏi [12] II. TÁN SỎI THẬN QUA NỘI SOI NIỆU QUẢN NGƯỢC DÒNG 2.1. Lịch sử Năm 1912, trong khi soi bàng quang một bệnh nhi 2 tháng tuổi có niệu quản dãn do van niệu đạo sau, Hugh Hampton Young đã đưa được máy soi 9,5 Fr qua niệu quản lên tới đài bể thận [9]. 2.2. Chỉ định Tán sỏi ngoài cơ thể tỏ ra hiệu quả trong trường hợp sỏi thận đơn giản. Chính vì lý do đó nên tán sỏi thận qua nội soi niệu quản ngược dòng không phổ biến, chỉ định hạn chế trong những trường hợp sau: 2.3. Kết quả điều trị Kết quả điều trị sỏi thận bằng phương pháp tán sỏi nội soi niệu quản ngược dòng phụ thuộc vị trí, kích thước sỏi, trình độ phẫu thuật viên và trang thiết bị [9]. 2.4. Tai biến - biến chứng Tổn thương đài bể thận và niệu quản mức độ nhẹ, do yếu tố cơ học trong quá trình phẫu thuật là tai biến - biến chứng thường gặp nhất ( chiếm 71% các tai biến - biến chứng ) [8]. Một số ít trường hợp niệu quản hoặc bể thận có thể bị thủng lỗ nhỏ, cần phải đặt JJ stent trong 4 - 6 tuần. Hiện nay để tăng mức độ an toàn, hiệu quả, hạn chế tai biến thì khi tán sỏi bể thận nội soi trong các trường hợp: Sỏi niệu quản 1/3 trên chạy lên thận, sỏi bể thận đơn thuần thường được chỉ định khi: + Niệu quản đủ rộng, ống soi tiếp cận được sỏi. + Sử dụng dụng cụ chặn, giữ sỏi. Nâng cao khả năng tiếp cận được sỏi, tránh hẹp niệu quản thì có thể đặt JJ bể thận - niệu quản trước 1 tuần và có thể kết hợp với tán sỏi ngoài cơ thể. Khi tán sỏi nên gây mê cho bệnh nhân, tư thế bệnh nhân nằm đầu thấp, độn gối mỏng dưới hông lưng để đẩy bể thận lên cao và giúp sỏi thẳng trục với ống soi bán cứng. --> Khi có điều kiện thì sử dụng ống soi mềm, phẫu thuật viện có thể tiếp cận được sỏi ở hầu hết các vị trí khó như: ở đài dưới, các cổ đài hẹp và gấp góc. Hình ảnh tán sỏi thận bằng ống mềm III- LẤY SỎI THẬN BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI TRONG HOẶC SAU PHÚC MẠC 3.1. Lịch sử Phẫu thuật thận nội soi ổ bụng hiện tại là kết quả của một quá trình phát triển từ cách đây khoảng 200 năm. Năm 1804, Bozzini đã sử dụng, dụng cụ đầu tiên để chiếu sáng những khoang tối trong cơ thể sống [7]. Năm 1901, Jacobius đã báo cáo 15 trường hợp được bơm khí trời vào ổ bụng, sau đó đưa máy soi quan sát hỗ trợ chẩn đoán tình trạng tràn dịch ổ bụng. Vào năm 1983 khi Semm đã cắt ruột thừa qua nội soi ổ bụng thành công [7]. Chỉ tới những năm gần đây, việc ứng dụng phẫu thuật nội soi ổ bụng trên tiết niệu mới phát triển mạnh mẽ. Năm 1990, Clayman và cộng sự đã thực hiện thành công một trường hợp cắt thận [7]. Thành công này đã làm nền cho sự phát triển đa dạng của các phẫu thuật trên hệ tiết niệu qua nội soi ổ bụng cả trong và ngoài phúc mạc [7]. 3.2. Chỉ định và chống chỉ định 3.2.1. Chỉ định [7] - Bệnh nhân sỏi thận đã điều trị bằng tán sỏi ngoài cơ thể, hoặc lấy sỏi thận qua da, hoặc tán sỏi nội soi niệu quản ngược dòng thất bại. 3.2.2. Chống chỉ định [7] Bệnh nhân có rối loạn về đông máu chưa được điều trị ổn định. 3.3. Kết quả điều trị Năm 1994, Gaur và cộng sự báo cáo thành công 5/8 trường hợp mở bể thận lấy sỏi qua nội soi ổ bụng ngoài phúc mạc, 2 trường hợp không thành công do tạo khoang sau phúc mạc thất bại và 1 trường hợp sỏi di chuyển lên đài trên thận [7]. Nhiều tác giả đã mở bể thận lấy sỏi qua nội soi ổ bụng trong phúc mạc thành công trên bệnh nhân thận lạc chỗ có sỏi đường kính tới 4 cm ( Chang và Dretler, 1996; Harmon, 1996; Hoenig, 1997 )[7]. Tỷ lệ thất bại cao nếu bệnh nhân đã có can thiệp cũ gây xơ dính ở khoang sau phúc mạc như: tán sỏi ngoài cơ thể, tán sỏi qua da...Cho nên sẽ chỉ định phẫu thuật nội soi trong ổ bụng nếu tiên lượng đường trước phúc mạc có nguy cơ tạo khoang thất bại. Và trong các trường hợp phẫu thuật phức tạp nên trang bị hệ thống cánh tay Robot hoặc hệ thống Robot- Davinci thì sẽ nâng cao mức độ an toàn, tỷ lệ thành công cao... Hiện nay với các phương tiện hiện đại thì phẫu thuật nội soi sau phúc mạc thường chỉ định cho các trường hợp: Sỏi thận, sỏi niệu quản có kích thước lớn, bể thận ngoài xoang, sỏi bể thận đơn thuần, có thể kết hợp các thương tổn cần phải sửa chữa như: Hẹp niệu quản, hẹp khúc nối bể thận - niệu quản...
--> Link về hình ảnh phẫu thuật nội soi sau phúc mạc lấy sỏi san hô thận phải : https://www.youtube.com/watch?v=k2OR4JmYiAI
3.4. Tai biến và biến chứng Tổn thương các động mạch, tĩnh mạch, nhánh mạch máu có thể phải chuyển mổ mở cầm máu [5] [7]. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sưu tầm và có bổ sung, chỉnh sửa trên Internet |
Tin nổi bật
- GIẢI PHẪU ĐƯỜNG TIẾT NIỆU TRÊN ỨNG DỤNG TRONG NỘI SOI NIỆU QUẢN - THẬN NGƯỢC DÒNG
10/08/2023 - 21:22:35
- Hướng dẫn các bước phẫu thuật điều trị tràn dịch màng tinh hoàn ở người trưởng thành
16/07/2023 - 22:11:23
- Các bước phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận mất chức năng
08/07/2023 - 18:24:37
- Các bước phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận mất chức năng
08/07/2023 - 18:07:24
- MỔ MỞ ĐIỀU TRỊ THOÁT VỊ BẸN - THOÁT VỊ BẸN NGHẸT Ở TRẺ EM
20/12/2021 - 16:23:17
- Một số phẫu thuật điều trị bệnh lý ở tinh hoàn
12/12/2021 - 15:52:47